Tôi chạnh nhớ đến câu nói của thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh trong phiên phúc thẩm của anh: “Một lũ bất nhân đã làm ra phiên tòa bất công”.
Ngày 20/4 vừa qua, một Toà Án Nhân Dân cấp cao tại Hà Nội đã tuyên thầy Tĩnh một bản án lên đến 11 năm tù. Câu nói cuối của thầy Tĩnh trước tòa, làm khắc sâu thêm hình ảnh nhem nhuốc của công lý, sự mất niềm tin của người dân vào ngành tư pháp hiện nay.
“Một lũ bất nhân!” đó là khuôn mặt của lãnh đạo ĐCS và các chánh án của Toà Án Nhân Dân cấp cao Hà Nội. Nhưng đây không chỉ là khẳng định của riêng thầy Tĩnh, gia đình vợ con thầy, học trò của thầy mà là khẳng định của đa số người dân về thái độ của chính quyền, của tòa án đối với dân. Đặc biệt là đối với tầng lớp thấp cổ bé miệng.
Thế mà, Ban Tuyên Giáo lúc nào cũng nêu cao về sự khoan hồng, nhân từ, công minh, giáo dục của đảng trên khắp mọi ngõ nghách của truyền thông!?
Nhiều người bảo cái chết của ông Phước là chết hoài, chết phí, khi dẫn điều ông chia sẻ trước đó trên Facebook: “Nếu cái chết của tôi làm thức tỉnh nền tư pháp tỉnh Bình Phước thì cũng đáng lắm chứ”. Nhận định đó không xa thực tế, vì trước ông Phước đã có người tự sát là ông Võ Chánh, trong một vụ xử về “tranh chấp quyền sử dụng đất” cũng sau phiên phúc thẩm tại tòa án tỉnh Bình Phước.
Nhìn mặt ngoài thì cái chết của ông Chánh rơi vào khoảng không hư vô; cái chết của ông Phước chỉ như một ngọn đèn mù soi vào cái bóng đêm thăm thẳm của công lý. Thế nhưng, cái khác ở đây là ngọn đèn đó đang soi rọi vào lương tri con người, và nó tạo nên những ám ảnh ray rức mà tôi nghĩ không chỉ riêng Ls Lê Ngọc Luân cảm nhận, khi ông đau đớn chia sẻ:
“Ở tòa án, là nơi mà bao con người chờ đợi, hi vọng một phán quyết công minh, tình người. Thế nhưng, ở nơi ấy, họ chọn cách lấy dao rạch bụng (Cần Thơ), uống thuốc độc chết (Ninh Thuận), nhảy từ lầu 2 (Bình Phước)… nhằm chứng minh cho sự oan ức và trong sạch của mình”.
Trong lúc cái chết của một người Mỹ gốc Phi, gây ra bởi một cảnh sát, đang làm bùng nổ những cuộc biểu tình ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ; những cái chết oan sai của người dân VN làm cho chúng ta trông giống như đang sống ở thời đại trung cổ. Nhưng thử hỏi, công lý làm sao có thể có mặt, khi mà chúng ta thờ ơ với công lý, dửng dưng trước bất công?
Qua phiên phúc thẩm xử Hồ Duy Hải, ai cũng nhận thấy rằng ngành tư pháp của ta lạc hậu. Thế nhưng, có một điều còn nhức nhối hơn – mãi đến tận giờ, chúng ta vẫn cam chịu sống mãi với cái lạc hậu ấy.
Biết bao nền văn minh nhân loại đã đi lướt qua ta. Tại sao người dân các quốc gia khác được luật pháp, được tòa án bảo vệ, mà dân ta phải chịu án oan sai. Cái khác nhau ở đây chính là sự nhận thức và thái độ của con người. Steven Scott, một diễn giả đã cố vấn cho hàng triệu người trên thế giới về kỹ năng thay đổi cuộc sống, bảo rằng: “Rất nhiều người đã đánh đổi tự do để nhận được sự an tòan, thậm chí họ không nhận ra điều đó. Có sự khác nhau giữa ‘một cơ hội bạn nắm được’ và ‘một cái bẫy bạn mắc phải’.”
Cái bẫy nào dân tộc ta đã mắc phải? Chuyện gì đã xảy ra với các giá trị sống của một thế hệ sẵn sàng lao vào lửa đạn cho những điều tốt đẹp, nhưng lại chọn quay lưng lại với kiếp nạn của đồng bào mình? Từ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại Chống Đảng, … máu, nước mắt của người vô tội, tràn trên những trang sử đau thương trong sự im lặng ghê rợn kéo dài hàng thế kỷ! Thiết nghĩ, nếu số đông dân ta hành xử khác đi, có lẽ nền tư pháp của ta ngày nay đã khác, và có lẽ vận mệnh đất nước cũng khác.
Điều đau lòng là mãi đến tận giờ, dân ta vẫn ngoan ngoãn, tự nguyện sống trong cái bẫy ấy. Nếu đem những kịch bản gian dối của bộ công an trong vụ tấn công vào Đồng Tâm ra thế giới văn minh, người ta sẽ không thể nào hiểu được. Làm thế nào giữa thời đại công nghệ thông tin, lại có một chính quyền coi dân ấu trĩ như vậy. Nhưng làm sao trách được, khi dân ta không hành xử đúng mực, đúng tầm của mình.
Lại xin đơn cử một câu chuyện khác, cũng vào thời gian diễn ra phiên xử thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh, Hội đồng thẩm phán của Toà Án Nhân Dân Tối Cao dự định phác thảo tượng vua Lý Thái Tông làm biểu tượng công lý của Toà Án Nhân Dân. Với dự án này, tượng của nhà vua sẽ được đặt tại trụ sở hệ thống của các tòa án trên tòan quốc.
Một đàng là án tuyên thật nặng cho một nhà giáo với những tội danh vu vơ, nhưng vẫn muốn dùng hình tượng nhân từ, công minh làm đại diện. Cả hai sự kiện xảy ra gần như cùng thời gian, nó làm ta liên tưởng đến hình ảnh của một con sói và mẩu đối thoại của nó với cô bé choàng khăn đỏ trong câu chuyện cổ tích Tây phương:
– Bà ơi! sao hôm nay tai bà to thế
– Tai bà to để nghe cháu rõ hơn.
– Bà ơi! sao hôm nay mắt bà to thế?
– Mắt bà to để nhìn thấy cháu rõ hơn.
– Bà ơi! sao hôm nay tay bà to thế?
– Tay bà to để bà nắm lấy cháu dễ hơn.
– Nhưng bà ơi! sao mồm bà to và nhiều răng thế!
– Tai bà to để nghe cháu rõ hơn.
– Bà ơi! sao hôm nay mắt bà to thế?
– Mắt bà to để nhìn thấy cháu rõ hơn.
– Bà ơi! sao hôm nay tay bà to thế?
– Tay bà to để bà nắm lấy cháu dễ hơn.
– Nhưng bà ơi! sao mồm bà to và nhiều răng thế!
Trông thì có vẻ diễu cợt, nhưng hình tượng minh hoạ thì không khác xa sự thật là mấy, khi nói đến cái cách tiếp cận giữa dân và chính quyền là thế. Một đàng cứ trắng trợn dối trá, một đàng gật gù với cái bánh vẽ như một phương thuốc xoa dịu lương tri. Bốn ngàn năm thăng trầm trong máu lửa, rút lại thành câu thơ buồn của một cô giáo ở Hà Tĩnh – bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn!
Chuyện xây tượng đài nay đã tạm gác lại. Hy vọng rằng các vị trong Hội đồng thẩm phán hãy tập trung làm những điều thiết thực, hòng chấm dứt những cái chết oan trái của người dân sau các phiên xử. Khi nghĩ đến hình tượng, xin hãy nhìn đến cái biểu tượng sống của “công lý” qua xác thân co quắp của ông Phước, bên ngoài cánh cửa tòa án, nơi các vị đang phục vụ.
Án oan sai đã chất đầy tòa án, người lương thiện, liêm chính, đầy trong những nhà tù, chẳng có hình tượng nào có thể thay đổi được gương mặt của lãnh đạo ngoài việc thực thi công lý. Khi toá án thực thi công lý, hành xử đúng với những gì được ghi trong hiến pháp, chính là xây dựng biểu tượng, là tìm lại niềm tin nơi công chúng. Đừng hoài công dựng tượng đài, hình tượng sẽ không thay đổi được gì khi mà mồm và răng của đảng vẫn to và ghê rợn.
Ngày 16/6/2001, bà Lê Thị Thúy Loan 27 tuổi đã uống thuốc sâu tại phiên tòa phúc thẩm ở Ninh Thuận. Bà nói: “Tôi đã uống thuốc sâu để bảo vệ danh dự của tôi”. Bà khạc nhổ ra mùi thuốc sâu, đứng không vững, gia đình khóc lóc xin mang đi cấp cứu. Nhưng quan tòa không cho. Mãi sau khi phiên tòa kết thúc gia đình mới được đưa bà Loan đi cứu chữa. Bà Loan đã tử vong.
Sau cái chết của bà Lê Thị Thúy Loan, Đoàn kiểm tra đã liệt kê ra 12 sai phạm lớn cùa Tòa án Ninh Thuận. Ông thẩm phán Nguyễn Đức Sáu cho rằng cái chết của bà Lê Thị Thúy Loan “là bài học xương máu cho ngành tòa án”. Nhưng ngành tòa án không bao giờ thức tỉnh.
Cựu công an ông Huỳnh Văn Tới đã phải mổ bụng tại phiên tòa do TANDTC TPHCM xét xử lưu động tại Bạc Liêu.
“Đêm trước ngày ra tòa, tôi không nhắm mắt được chút nào, lén lấy con dao lam bẻ làm đôi, nhét một nửa vào gói thuốc. Vì nó nhỏ, mỏng dính nên cán bộ kiểm tra khó phát hiện. Đã chuẩn bị tâm lý, giữa phiên tòa tôi đã lấy dao lam rạch bụng ý định chết ở đó, nhưng vì dao mỏng nên khó rạch vào sâu nên thương tích nhẹ”, ông Tới kể.
Mất hết danh dự vì mang oan tội “tham ô tài sản”, ông Tới kể thấy mình nhục nhã, sống không bằng chết. Ông càng đau hơn khi nghĩ tới cảnh tất cả nhà cửa, tài sản bị tịch thu, vợ con phải lang thang “ăn nhờ ở đậu” nhà người quen.
Sau cái chết của bà Lê Thị Thúy Loan, Đoàn kiểm tra đã liệt kê ra 12 sai phạm lớn cùa Tòa án Ninh Thuận. Ông thẩm phán Nguyễn Đức Sáu cho rằng cái chết của bà Lê Thị Thúy Loan “là bài học xương máu cho ngành tòa án”. Nhưng ngành tòa án không bao giờ thức tỉnh.
Cựu công an ông Huỳnh Văn Tới đã phải mổ bụng tại phiên tòa do TANDTC TPHCM xét xử lưu động tại Bạc Liêu.
“Đêm trước ngày ra tòa, tôi không nhắm mắt được chút nào, lén lấy con dao lam bẻ làm đôi, nhét một nửa vào gói thuốc. Vì nó nhỏ, mỏng dính nên cán bộ kiểm tra khó phát hiện. Đã chuẩn bị tâm lý, giữa phiên tòa tôi đã lấy dao lam rạch bụng ý định chết ở đó, nhưng vì dao mỏng nên khó rạch vào sâu nên thương tích nhẹ”, ông Tới kể.
Mất hết danh dự vì mang oan tội “tham ô tài sản”, ông Tới kể thấy mình nhục nhã, sống không bằng chết. Ông càng đau hơn khi nghĩ tới cảnh tất cả nhà cửa, tài sản bị tịch thu, vợ con phải lang thang “ăn nhờ ở đậu” nhà người quen.
© Nguyệt Quỳnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét