Những ngày dự Hội nghị các nhà văn trẻ toàn quốc lần thứ 3 vào cuối tháng 12 năm 1985, hôm nào bọn chúng tôi ở miền Nam ra cũng được các nhà thơ, nhà văn đàn anh đến thăm và nói chuyện ở khu nhà khách của Tổng cục Chính Trị. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh của thời Xuân Thu nhã tập, nhà văn Bùi Hiển tác giả Nằm Vạ, Vũ Cao của Núi Đôi...Nhưng có lẽ nhà văn Thanh Tịnh là người để lại ấn tượng mạnh nhất với tôi lúc đó. Mỗi lần đến nhà khách, ông cũng nói chuyện tới khuya, dù trời Hà Nội đêm cuối năm rét căm căm...
Nhà văn Thanh Tịnh |
Một hôm, sau lễ tang nhà thơ Xuân Diệu, ông đến chơi cùng chúng tôi ở phòng số 9 đến khuya. Dường như ông cố che giấu nỗi buồn mất bạn, nên cứ ngồi kể chuyện tiếu lâm ta, tiếu lâm Tây, rồi tiếu lâm cổ làm cho cả phòng rộn tiếng cười.Từ chuyện tiếu lâm, ông lại nói về Kim Thánh Thán, về văn hoá Ấn Độ, rồi quay lại Tuồng Việt Nam lúc nào không hay...Trong tấm áo dày và chiếc khăn quàng cổ đã thẩm màu, nhưng trông ông không có vẻ gì yếu đuối. Là nhà văn đi nhiều, đọc nhiều, rất tâm huyết với giới trẻ và lại cũng là lần đầu tiên sau hoà bình, những người viết trẻ cả nước tụ họp ở đây, nên như lời ông nói : “là một cơ hội hiếm có để một ông già như tớ tâm sự, cả những chuyện trong lẫn ngoài trang viết...”
Vào lúc ông dừng lại uống nước, tôi nhìn thẳng vào ông và đọc: "Mỗi năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rơi rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc...", rồi nói với ông đó là bài học thuộc lòng của bất cứ học sinh tiểu học nào ở miền Nam trước đây.Ông hết bắt tay tôi lại bắt tay các bạn ngồi bên, ra vẻ rất cảm động. Ông kể một hôm sang chiến trường Campuchia cũng đã một lần chảy nước mắt khi nghe một anh lính trẻ đọc lại bài văn đó. “Hạnh phúc của người viết là thế đấy, các cậu ạ!”, ông nói. Chúng tôi tranh thủ lúc đó để xin ông ký tên và viết lưu bút làm kỷ niệm. Thanh Tịnh viết cho tôi ngay trên mặt sau tấm giấy mời dự hội nghị. Đó là hai câu: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong...( Bút tích này sau tôi đưa nhà văn Đoàn Thạch Biền mượn, không biết anh còn giữ không!)
Thấy chúng tôi ngơ ngác,ông giải thích:
-“Vào những năm sau năm 1954 ở ngoài Bắc, tớ được phân công viết ca dao để tuyên truyền chính sách. Nhân việc phổ biến chính sách thu mua lương thực cho cách mạng, tớ đã viết những câu này. Khi viết xong bài tớ đưa cho Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đọc. Anh Thanh chê câu: Dân no thì lính cũng no và cho rằng đó là ý của Lênin (?), nhưng không rõ sao sau đó anh lại trình cho Bác xem. Rồi trong một lần nói chuyện đi thăm cơ sở, Bác đã nhắc lại hai câu đó nên ai cũng tưởng là của Bác. Sau này Đại tướng Hoàng Văn Thái đã trả lại nó cho chính tác giả là tớ rồi...Chứ hồi đó dễ gì được gặp Bác...”.
Từ chuyện ca dao,Thanh Tịnh lại nói chuyện du lịch.
Ông kể :
-“Tớ đi nhiều nơi, cũng từng được tháp tùng nhiều đoàn đi các nước, thấy ở đâu cũng có các nền văn hoá hai, ba ngàn năm cả chứ không riêng gì ở ta. Do vậy, khó mà hiểu biết hết.Tốt nhất, nếu được ra nước ngoài, các bạn nên tranh thủ làm 3 việc: thăm bảo tàng lịch sử, nghe vài câu ca dao tục ngữ,vài làn điệu dân ca và cuối cùng là nên...đi chợ. Chợ là nơi diễn ra cuộc sống văn hoá, kinh tế của mỗi cộng đồng rõ nhất. Ở chợ, cái ăn cái mặc của từng dân tộc được biểu lộ rất chân thật ...”
Đến đây, một người trong chúng tôi hỏi: “Thế còn ở ta, bác từng viết ăn Bắc, mặc Kinh chắc cũng vì mục đích quảng bá du lịch Việt Nam?”.
Nhà văn Thanh Tịnh cười, kể:
-“ Năm ngoái, báo Nhân Dân đặt tớ viết một bài về Thủ đô ngàn năm văn vật.Trong bài, tớ nhắc đến 5 cái ăn của người Hà Nội: ăn nói, ăn mặc, ăn làm, ăn học và ăn ở. Riêng ăn mặc thì tớ viết ma mặc áo vàng, quan mặc áo xanh, thường dân mặc áo đen, con gái mặc áo trắng, nhưng con gái chưa chồng thì mặc áo tím...Không ngờ sau đó hơn nửa tháng, một anh bạn đại tá đã gởi cho tớ một lá thư trách rằng nhà văn không biết 5 cái ăn đó giờ đã thay đổi; hoặc là biết nhưng không dám viết vì sợ bài không được đăng! Rồi anh ta kể ra 5 cái ăn mới là: ăn trộm, ăn cắp, ăn xin, ăn gian và ăn...hối lộ! Lá thư ấy làm tớ mất ngủ và nghĩ đến một anh bạn khác từng tập kết ra Bắc hồi năm 1954. Sau khi trở về Nam năm 1975, anh ta trở lại Hà Nội vài lần thăm bạn cũ.Gặp nhau, anh ta đã nói với tớ: “Cái gì trước đây là bình thường thì bây giờ bị cho là lập dị, cái gì trước đây là lập dị thì bây giờ lại bình thường.Và anh ta ví dụ: Ngày trước, ra đường thấy vòi nước ai mở bỏ quên, ta đến đóng lại. Bây giờ việc đó bị bọn trẻ gọi ngay là ông già hâm. Thấy cụ già hay phụ nữ lên xe buýt đã hết chỗ, ta đứng dậy mời họ ngồi vào chỗ mình, cũng bị cho là hâm tuốt!”
Bất ngờ nhà văn Thanh Tịnh đứng dậy, nhìn đồng hồ rồi bắt tay từng người:
- Thôi tớ về nhé! Không chừng tớ cứ nói lung tung thế này cũng sẽ bị các cậu coi là ông già hâm mất!
Và ông mở cửa, bước nhanh ra ngoài không chờ chúng tôi đứng lên tiễn. Nhà văn Thanh Tịnh (năm ấy bảy mươi tuổi) đã đi rồi, nhưng chúng tôi cứ ngỡ tấm lòng nhiệt huyết, trẻ trung của ông vẫn ở mãi bên chúng tôi.
Trương Điện Thắng
Hà Nội- Đà Nẵng, 1986
Vào lúc ông dừng lại uống nước, tôi nhìn thẳng vào ông và đọc: "Mỗi năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rơi rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc...", rồi nói với ông đó là bài học thuộc lòng của bất cứ học sinh tiểu học nào ở miền Nam trước đây.Ông hết bắt tay tôi lại bắt tay các bạn ngồi bên, ra vẻ rất cảm động. Ông kể một hôm sang chiến trường Campuchia cũng đã một lần chảy nước mắt khi nghe một anh lính trẻ đọc lại bài văn đó. “Hạnh phúc của người viết là thế đấy, các cậu ạ!”, ông nói. Chúng tôi tranh thủ lúc đó để xin ông ký tên và viết lưu bút làm kỷ niệm. Thanh Tịnh viết cho tôi ngay trên mặt sau tấm giấy mời dự hội nghị. Đó là hai câu: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong...( Bút tích này sau tôi đưa nhà văn Đoàn Thạch Biền mượn, không biết anh còn giữ không!)
Thấy chúng tôi ngơ ngác,ông giải thích:
-“Vào những năm sau năm 1954 ở ngoài Bắc, tớ được phân công viết ca dao để tuyên truyền chính sách. Nhân việc phổ biến chính sách thu mua lương thực cho cách mạng, tớ đã viết những câu này. Khi viết xong bài tớ đưa cho Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đọc. Anh Thanh chê câu: Dân no thì lính cũng no và cho rằng đó là ý của Lênin (?), nhưng không rõ sao sau đó anh lại trình cho Bác xem. Rồi trong một lần nói chuyện đi thăm cơ sở, Bác đã nhắc lại hai câu đó nên ai cũng tưởng là của Bác. Sau này Đại tướng Hoàng Văn Thái đã trả lại nó cho chính tác giả là tớ rồi...Chứ hồi đó dễ gì được gặp Bác...”.
Từ chuyện ca dao,Thanh Tịnh lại nói chuyện du lịch.
Ông kể :
-“Tớ đi nhiều nơi, cũng từng được tháp tùng nhiều đoàn đi các nước, thấy ở đâu cũng có các nền văn hoá hai, ba ngàn năm cả chứ không riêng gì ở ta. Do vậy, khó mà hiểu biết hết.Tốt nhất, nếu được ra nước ngoài, các bạn nên tranh thủ làm 3 việc: thăm bảo tàng lịch sử, nghe vài câu ca dao tục ngữ,vài làn điệu dân ca và cuối cùng là nên...đi chợ. Chợ là nơi diễn ra cuộc sống văn hoá, kinh tế của mỗi cộng đồng rõ nhất. Ở chợ, cái ăn cái mặc của từng dân tộc được biểu lộ rất chân thật ...”
Đến đây, một người trong chúng tôi hỏi: “Thế còn ở ta, bác từng viết ăn Bắc, mặc Kinh chắc cũng vì mục đích quảng bá du lịch Việt Nam?”.
Nhà văn Thanh Tịnh cười, kể:
-“ Năm ngoái, báo Nhân Dân đặt tớ viết một bài về Thủ đô ngàn năm văn vật.Trong bài, tớ nhắc đến 5 cái ăn của người Hà Nội: ăn nói, ăn mặc, ăn làm, ăn học và ăn ở. Riêng ăn mặc thì tớ viết ma mặc áo vàng, quan mặc áo xanh, thường dân mặc áo đen, con gái mặc áo trắng, nhưng con gái chưa chồng thì mặc áo tím...Không ngờ sau đó hơn nửa tháng, một anh bạn đại tá đã gởi cho tớ một lá thư trách rằng nhà văn không biết 5 cái ăn đó giờ đã thay đổi; hoặc là biết nhưng không dám viết vì sợ bài không được đăng! Rồi anh ta kể ra 5 cái ăn mới là: ăn trộm, ăn cắp, ăn xin, ăn gian và ăn...hối lộ! Lá thư ấy làm tớ mất ngủ và nghĩ đến một anh bạn khác từng tập kết ra Bắc hồi năm 1954. Sau khi trở về Nam năm 1975, anh ta trở lại Hà Nội vài lần thăm bạn cũ.Gặp nhau, anh ta đã nói với tớ: “Cái gì trước đây là bình thường thì bây giờ bị cho là lập dị, cái gì trước đây là lập dị thì bây giờ lại bình thường.Và anh ta ví dụ: Ngày trước, ra đường thấy vòi nước ai mở bỏ quên, ta đến đóng lại. Bây giờ việc đó bị bọn trẻ gọi ngay là ông già hâm. Thấy cụ già hay phụ nữ lên xe buýt đã hết chỗ, ta đứng dậy mời họ ngồi vào chỗ mình, cũng bị cho là hâm tuốt!”
Bất ngờ nhà văn Thanh Tịnh đứng dậy, nhìn đồng hồ rồi bắt tay từng người:
- Thôi tớ về nhé! Không chừng tớ cứ nói lung tung thế này cũng sẽ bị các cậu coi là ông già hâm mất!
Và ông mở cửa, bước nhanh ra ngoài không chờ chúng tôi đứng lên tiễn. Nhà văn Thanh Tịnh (năm ấy bảy mươi tuổi) đã đi rồi, nhưng chúng tôi cứ ngỡ tấm lòng nhiệt huyết, trẻ trung của ông vẫn ở mãi bên chúng tôi.
Trương Điện Thắng
Hà Nội- Đà Nẵng, 1986
Về nhà văn Thanh Tịnh:
1. Thanh Tịnh có truyện ngắn nổi tiếng “Tôi đi học”. Ông từng đoạt giải nhất cuộc thi Thơ do Hà Nội Báo tổ chức năm 1936.
Năm 1941 ông sáng tác hai bài thơ nổi tiếng "Mòn mỏi" và "Tơ trời với tơ lòng". Năm 1942 thơ ông cùng với thơ của 43 thi sĩ tên tuổi khác vinh dự được Hoài Thanh - Hoài Chân giới thiệu trong “Thi nhân Việt Nam”.
2. Thời tập kết ở Miền Bắc nhà văn Thanh Tịnh thường nói: “Thống nhất sớm tôi về Văn Lâu (Phu Văn Lâu – Huế), thống nhất lâu tôi về Văn Điển” (nghĩa trang ở Hà Nội).
3.Thanh Tịnh là người dường như suốt đời gắn bó với việc ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân. Sau bao nhiêu năm mòn mỏi đợi chờ trên đất Bắc mong ngày sớm trở lại quê hương để gặp mặt gia đình và người thân, vậy mà năm 1975 khi trở về Huế do cuộc đời đư đẩy và trớ trêu, ông đã không thể gặp lại người vợ và đứa con trai thân yêu của mình. Thất vọng não nề ông đành phải quay ra miền Bắc tiếp tục cuộc đời ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân. Thật buồn cho một phận người ba chìm bảy nổi chín lênh đênh.
4. Hai câu thơ của Thanh Tịnh nhưng rất nhiều người nhầm là của cụ Hồ: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Hai câu thơ trên nằm trong bài thơ “Dân no thì lính cũng no” của nhà thơ Thanh Tịnh, được sáng tác vào năm 1948 trong cuộc vận động nhân dân đóng thuế nông nghiệp. Nguyên văn bài thơ như sau:
Trông lên thì thấy đầy sao
Nhìn quanh thì thấy đồng bào mến than
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong
Thóc thuế mà có dân đong
Trăm công nghìn việc ngược dòng cũng xuôi
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Liệu còn thằng giặc đứng ngồi sao yên?
Nhân dân là bậc mẹ hiền
Cơm gạo áo tiền thì mẹ phải lo
Dân no thì lính cũng no
Dân reo lập nghiệp, lính hò lập công.
* Bài đăng trên tạp chí Đất Quảng năm 1986 và mới đăng trong tập "Bẻ đôi củ khoai..." mới xuất bản.
(FB Trương Điện Thắng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét