Thế giới học được gì từ một năm Covid? - Tin Tức Hàng Ngày Online -->

Breaking

Home Top Ad

Post Top Ad

Chủ Nhật, 21 tháng 3, 2021

Thế giới học được gì từ một năm Covid?


Nguồn: Yuval Noah Harari: Lessons from a year of Covid | Free to read. Financial Times, FEBRUARY 25 2021
Thế giới học được gì từ một năm Covid?​ Yuval Noah Harari: Lessons from a year of Covid | Free to read. Financial Times, FEBRUARY 25 2021


Trong một năm có nhiều đột phá về khoa học - và những thất bại về chính trị - chúng ta có thể học hỏi được gì cho tương lai?


Chúng ta có thể tóm tắt năm Covid từ quan điểm lịch sử rộng lớn như thế nào? Nhiều người tin rằng con số khủng khiếp mà virus corona gây ra chứng tỏ sự bất lực của nhân loại trước sức mạnh của thiên nhiên. Trên thực tế, năm 2020 đã cho thấy điều ngược lại. Dịch tễ không còn là lực lượng không thể kiểm soát được của tự nhiên. Khoa học đã biến chúng thành một thách thức có thể kiểm soát được. Vậy tại sao lại có quá nhiều chết chóc và đau khổ? Vì những quyết định chính trị tồi tệ.


Trong các thời đại trước, khi con người phải đối mặt với một bệnh dịch như Cái chết Đen, họ không biết điều gì đã gây ra nó hoặc làm thế nào để ngăn chặn nó. Khi đại dịch cúm năm 1918 xảy ra, các nhà khoa học giỏi nhất trên thế giới không thể xác định được loại virus gây chết người, nhiều biện pháp đối phó vô ích đã được áp dụng và những nỗ lực phát triển loại vaccine hiệu quả đã không đạt được. Đại dịch cúm đó rất khác với Covid-19.


Hồi chuông cảnh báo đầu tiên về một đại dịch mới đang tiềm ẩn bắt đầu vang lên vào cuối tháng 12 năm 2019. Đến ngày 10-1-2020, các nhà khoa học đã không chỉ phân lập được virus gây bệnh mà còn giải mã bộ gene của nó và công bố công khai trên mạng Internet. Trong vòng vài tháng sau đó, người ta đã thấy rõ những biện pháp nào có thể làm chậm và ngăn chặn các chuỗi lây nhiễm. Trong vòng chưa đầy một năm, một số loại vaccine hiệu quả đã được sản xuất hàng loạt. Trong cuộc chiến giữa loài người và các tác nhân gây bệnh, chưa bao giờ con người lại mạnh mẽ đến thế.



ĐƯA CUỘC SỐNG LÊN MẠNG INTERNET


Cùng với những thành tựu chưa từng có của công nghệ sinh học, năm Covid đầu tiên cũng cho thấy sức mạnh của công nghệ thông tin. Trong các thời đại trước đây, loài người hiếm khi có thể ngăn chặn dịch bệnh vì con người không thể theo dõi các chuỗi lây nhiễm trong thời gian thực, và vì chi phí kinh tế của các đợt giãn cách xã hội kéo dài là rất cao. Vào năm 1918, bạn có thể cách ly những người mắc bệnh cúm đáng sợ, nhưng bạn không thể theo dõi sự di chuyển của những người mang mầm bệnh đã hoặc không có triệu chứng. Và nếu bạn ra lệnh cho toàn bộ dân cư của một quốc gia phải ở nhà trong vài tuần, điều đó sẽ dẫn đến sự tàn phá kinh tế, suy sụp xã hội và nạn đói trên diện rộng.


Ngược lại, vào năm 2020, giám sát kỹ thuật số giúp việc theo dõi và xác định chính xác các vật chủ truyền bệnh trung gian dễ dàng hơn rất nhiều, có nghĩa là việc kiểm dịch có thể chọn lọc hơn và hiệu quả hơn. Quan trọng hơn nữa, tự động hóa và Internet đã làm cho việc cách ly xã hội quy mô lớn trở nên khả thi, ít nhất là ở các nước phát triển. Trong khi ở một số nơi của thế giới đang phát triển, trải nghiệm của con người vẫn gợi nhớ đến những bệnh dịch trong quá khứ, thì ở phần lớn thế giới phát triển, cuộc cách mạng kỹ thuật số đã thay đổi mọi thứ. Hãy xem xét lĩnh vực nông nghiệp.


Trong hàng nghìn năm, sản xuất lương thực dựa vào sức lao động của con người, và khoảng 90% dân số làm nghề nông. Ngày nay ở các nước phát triển, điều này không còn xảy ra nữa. Tại Hoa Kỳ, chỉ có khoảng 1,5% người dân làm việc trong các trang trại, nhưng điều này không chỉ đủ để nuôi sống tất cả người dân Hoa Kỳ mà còn đưa Hoa Kỳ trở thành nhà xuất khẩu thực phẩm hàng đầu thế giới. Hầu như tất cả các công việc đồng áng đều do máy móc đảm nhiệm. Vì vậy, việc cách ly xã hội chỉ có tác động nhỏ đến việc canh tác.


   Mời xem thêm »


Hãy tưởng tượng một cánh đồng lúa mì trong thời kỳ đỉnh dịch của Cái chết Đen. Nếu bạn bảo những người nông dân ở nhà vào thời gian thu hoạch, bạn sẽ bị chết đói. Nếu bạn bảo những người nông dân đến và thu hoạch, họ có thể lây bệnh cho nhau. Vậy phải làm thế nào? Bây giờ hãy tưởng tượng cùng một cánh đồng lúa mì vào năm 2020. Một tổ hợp được định hướng bằng hệ thống định vị toàn cầu (GPS) có thể thu hoạch toàn bộ cánh đồng với hiệu quả cao hơn nhiều - và người nông dân không có khả năng bị nhiễm bệnh.


Trong khi vào năm 1349, một người nông dân trung bình thu hoạch được khoảng 5 giạ thóc mỗi ngày, thì vào năm 2014, sự kết hợp của thành tự công nghệ đã lập kỷ lục với việc thu hoạch 30.000 giạ trong một ngày. Do đó, Covid-19 không có tác động đáng kể đến sản xuất toàn cầu đối với các loại cây trồng chủ lực như lúa mì, ngô và gạo. Để nuôi sống mọi người thì chỉ thu hoạch ngũ cốc thôi là không đủ. Bạn cũng cần phải vận chuyển nó, đôi khi trên một quãng đường dài hàng nghìn kilomet. Trong phần lớn lịch sử đã qua, thương mại là một trong những tác nhân chính để lây lan đại dịch. Các mầm bệnh chết người di chuyển khắp thế giới trên các tàu buôn và các đoàn lữ hành đường dài. Ví dụ, Cái chết Đen đã lây lan từ Đông Á đến Trung Đông dọc theo Con đường Tơ lụa, và chính các tàu buôn của người Genova sau đó đã lây lan mầm bệnh đến châu Âu. Thương mại gây ra một mối đe dọa chết người như vậy bởi vì mỗi toa tàu đều cần một toa xe, hàng chục thủy thủ được yêu cầu vận hành ngay cả những tàu biển nhỏ, do đó những con tàu và các nhà trọ đông đúc là những ổ dịch bệnh.


Vào năm 2020, thương mại toàn cầu có thể tiếp tục hoạt động ít nhiều suôn sẻ vì nó có rất ít con người tham gia. Một con tàu chở container hiện nay được tự động hóa phần lớn có thể chở nhiều tấn hơn cả đội thương thuyền của toàn bộ vương quốc hiện đại sơ khai. Năm 1582, đội tàu buôn của Anh có tổng sức chở 68.000 tấn và cần khoảng 16.000 thủy thủ. Tàu container OOCL Hong Kong, được đặt tên vào năm 2017, có thể chở 200.000 tấn trong khi thủy thủ đoàn chỉ cần 22 người. Đúng như vậy, tàu du lịch với hàng trăm khách du lịch và máy bay chở đầy hành khách đã đóng một vai trò quan trọng trong sự bùng phát của Covid-19.


Nhưng du lịch và đi lại không phải là điều cần thiết cho thương mại. Khách du lịch có thể ở nhà và những người kinh doanh có thể hoạt động trên nền tảng Zoom, trong khi những con tàu tự động gần như không có con người đã giữ cho nền kinh tế toàn cầu vận hành. Trong khi du lịch quốc tế giảm mạnh vào năm 2020, khối lượng thương mại hàng hải toàn cầu chỉ giảm 4%. Tự động hóa và số hóa thậm chí còn có tác động sâu sắc hơn đến các dịch vụ. Vào năm 1918, không thể tưởng tượng được rằng các văn phòng, trường học, tòa án hoặc nhà thờ có thể tiếp tục hoạt động trong tình trạng bị cách ly xã hội. Nếu học sinh và giáo viên trú ẩn trong nhà của họ, làm thế nào bạn có thể tổ chức lớp học?



Ngày nay chúng ta đã có giải pháp. Việc chuyển đổi trực tuyến có nhiều nhược điểm, ít nhất là nó tạo ra tổn thất tinh thần to lớn. Nhưng thực tế những điều có thể thực hiện ngày nay thật đáng kinh ngạc. Vào năm 1918, loài người chỉ sinh sống ở thế giới vật chất, và khi virus cúm chết người càn quét thế giới này, loài người không còn nơi nào để trốn chạy. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta đang sống trong hai thế giới - thực và ảo. Khi virus corona lây nhiễm trong thế giới vật chất, nhiều người đã chuyển phần lớn cuộc sống của họ sang thế giới ảo, nơi virus không thể lây nhiễm.


Tất nhiên, con người vẫn là thực thể vật lý, và không phải mọi thứ đều có thể được số hóa. Năm Covid đầu tiên đã nêu bật vai trò quan trọng của nhiều nghề được trả lương thấp trong việc duy trì nền văn minh nhân loại: y tá, công nhân vệ sinh, tài xế xe tải, thu ngân, người giao hàng. Người ta thường nói mọi nền văn minh chỉ cách tình trạng man rợ chỉ ba bữa ăn. Vào năm 2020, những người giao hàng là lằn ranh đỏ mỏng manh giúp kết nối nền văn minh lại với nhau. Họ đã trở thành huyết mạch quan trọng của chúng ta đối với thế giới vật chất.


INTERNET VẪN VỮNG VÀNG


Khi loài người tiến hành tự động hóa, số hóa và thay đổi các hoạt động theo hướng tiến hành trực tuyến, nó khiến chúng ta phải đối mặt với những mối nguy hiểm mới. Một trong những điều đáng chú ý nhất của năm Covid là Internet không bị phá vỡ. Nếu chúng ta đột ngột tăng lượng phương tiện qua lại trên một cây cầu, chúng ta có thể bị tắc đường, và thậm chí có thể gây sập cầu. Vào năm 2020, trường học, văn phòng và nhà thờ chuyển sang hoạt động trực tuyến hầu như chỉ trong một đêm, nhưng internet vẫn ổn định. Chúng ta hầu như không dừng lại để nghĩ về điều này, nhưng chúng ta nên làm vậy. Sau năm 2020, chúng ta biết rằng cuộc sống vẫn có thể tiếp diễn ngay cả khi cả một quốc gia đang trong tình trạng cách ly xã hội. Bây giờ hãy thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta gặp sự cố.


Công nghệ thông tin đã giúp chúng ta kiên cường hơn khi đối mặt với các loại virus hữu cơ, nhưng nó cũng khiến chúng ta dễ bị tấn công hơn trước phần mềm độc hại và chiến tranh mạng. Mọi người thường hỏi: “Một ‘đại dịch Covid’ tiếp theo là gì?”. Đó chính là cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta. Phải mất vài tháng, virus corona mới lan truyền khắp thế giới và lây nhiễm cho hàng triệu người. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của chúng ta có thể sụp đổ trong một ngày. Và trong khi các trường học và văn phòng có thể nhanh chóng chuyển đổi trực tuyến, bạn nghĩ mình sẽ mất bao nhiêu thời gian để chuyển từ email sang đưa thư kiểu truyền thống?


TÍNH TOÁN ĐIỀU GÌ?


Năm Covid đầu tiên đã cho thấy một hạn chế thậm chí còn quan trọng hơn đối với sức mạnh khoa học và công nghệ của chúng ta. Khoa học đã không thể thay thế chính trị. Khi chúng ta đi đến quyết định về chính sách, chúng ta phải tính đến nhiều lợi ích và giá trị, và vì khoa học không thể xác định lợi ích và giá trị nào quan trọng hơn, nên khoa học không có cách nào để quyết định những gì chúng ta nên làm. Ví dụ, khi quyết định có áp đặt một cuộc cách ly xã hội hay không, thì câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ bị lây nhiễm với Covid-19 nếu chúng ta không áp đặt việc cách ly xã hội?” là không đủ.


Chúng ta cũng nên đặt câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ bị trầm cảm nếu chúng ta áp đặt một đợt cách ly xã hội? Bao nhiêu người sẽ bị thiếu dinh dưỡng? Bao nhiêu người sẽ phải nghỉ học hoặc bị mất việc làm? Có bao nhiêu người sẽ bị đánh đập hoặc sát hại bởi vợ hoặc chồng của họ?”. Ngay cả khi tất cả dữ liệu của chúng ta là chính xác và đáng tin cậy, chúng ta nên luôn hỏi: “Chúng ta tính cái gì? Ai là người quyết định tính cái gì? Làm thế nào để chúng ta đánh giá các con số đầy mâu thuẫn với nhau?”. Đây là một nhiệm vụ chính trị hơn là nhiệm vụ khoa học. Chính các chính trị gia phải cân bằng giữa các cân nhắc về y tế, kinh tế và xã hội, và đưa ra một chính sách toàn diện.


Tương tự, các kỹ sư đang tạo ra các nền tảng kỹ thuật số mới giúp chúng ta tiếp tục sinh sống và làm việc trong tình trạng cách ly xã hội, cùng với các công cụ giám sát mới giúp chúng ta phá vỡ các chuỗi lây nhiễm. Nhưng việc số hóa và giám sát gây nguy hiểm cho quyền riêng tư của chúng ta và mở đường cho sự xuất hiện của các chế độ toàn trị vốn chưa từng xuất hiện. Vào năm 2020, giám sát cư dân quy mô lớn đã trở nên hợp pháp hơn và phổ biến hơn. Chiến đấu với bệnh dịch là quan trọng, nhưng nó có đáng để chúng ta phá hủy tự do trong quá trình này không? Công việc của các chính trị gia, chứ không phải của các kỹ sư, là tìm ra sự cân bằng phù hợp giữa việc giám sát hữu ích và những cơn ác mộng về một xã hội đầy bất công và đau khổ.



Có ba quy tắc cơ bản sẽ giúp bảo vệ chúng ta khỏi các chế độ độc tài kỹ thuật số, ngay cả trong thời đại bệnh dịch. Đầu tiên, bất cứ khi nào bạn thu thập dữ liệu về mọi người - đặc biệt là về những gì đang xảy ra bên trong cơ thể của họ - dữ liệu này nên được sử dụng để giúp những người này chứ không phải để thao túng, kiểm soát hoặc làm hại họ. Bác sĩ riêng của tôi biết nhiều điều cực kỳ riêng tư về tôi. Tôi đồng ý với nó, vì tôi tin tưởng bác sĩ của tôi sử dụng dữ liệu này vì lợi ích của tôi. Bác sĩ của tôi không nên bán dữ liệu này cho bất kỳ công ty hoặc đảng phái chính trị nào. Nó phải giống với bất kỳ loại “cơ quan giám sát đại dịch” nào mà chúng ta có thể thiết lập.


Thứ hai, giám sát luôn phải được triển khai theo cả hai hướng. Nếu sự giám sát chỉ đi từ trên xuống dưới, thì đây là con đường dẫn đến chế độ độc tài. Vì vậy, bất cứ khi nào một xã hội tăng cường giám sát các cá nhân, nócũng nên đồng thời tăng cường giám sát chính phủ và các tập đoàn lớn. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng hiện nay, các chính phủ đang phát hành một lượng tiền khổng lồ. Quy trình phân bổ kinh phí cần được minh bạch hơn. Với tư cách là một công dân, tôi muốn dễ dàng xem ai nhận được gì và ai là người quyết định số tiền đi đâu. Tôi muốn đảm bảo rằng số tiền được chuyển đến các doanh nghiệp thực sự cần nó hơn là vào một tập đoàn lớn mà chủ sở hữu là bạn của một bộ trưởng. Nếu chính phủ nói rằng quá phức tạp để thiết lập một hệ thống giám sát như vậy giữa một đại dịch, thì đừng tin vào điều đó.


Nếu không quá phức tạp để bắt đầu giám sát những gì bạn làm - thì cũng không quá phức tạp để bắt đầu giám sát những gì chính phủ làm. Thứ ba, không bao giờ cho phép tập trung quá nhiều dữ liệu ở một nơi. Không phải trong thời kỳ dịch, và không phải kể cả khi nó kết thúc. Độc quyền dữ liệu là một công thức cho chế độ độc tài. Vì vậy, nếu chúng ta thu thập dữ liệu sinh trắc học trên người để ngăn chặn đại dịch, điều này nên được thực hiện bởi một cơ quan y tế độc lập hơn là cảnh sát. Và dữ liệu cuối nên được giữ tách biệt với các kho dữ liệu khác của các bộ chính phủ và các tập đoàn lớn. Chắc chắn, nó sẽ tạo ra sự dư thừa và kém hiệu quả. Nhưng sự kém hiệu quả là một tính năng, không phải là một lỗi. Bạn muốn ngăn chặn sự gia tăng của chế độ độc tài kỹ thuật số? Giữ mọi thứ ít nhất là một chút không hiệu quả.


VƯỢT LÊN CÁC CHÍNH TRỊ GIA


Những thành công chưa từng có về khoa học và công nghệ của năm 2020 đã không giải quyết được cuộc khủng hoảng Covid-19. Chúng đã biến dịch bệnh từ một thiên tai thành một tình thế tiến thoái lưỡng nan về chính trị. Khi Cái chết Đen giết chết hàng triệu người, không ai mong đợi nhiều từ các vị vua và hoàng đế. Khoảng một phần ba dân số của nước Anh đã chết trong làn sóng Cái chết Đen đầu tiên, nhưng điều này không khiến Vua Edward III của Anh bị mất ngôi. Rõ ràng việc ngăn chặn dịch bệnh vượt quá khả năng của các nhà cai trị, vì vậy không ai đổ lỗi cho họ về sự thất bại. Nhưng ngày nay loài người có các công cụ khoa học để ngăn chặn Covid-19. Một số quốc gia, từ Việt Nam đến Úc, đã chứng minh rằng ngay cả khi không có vaccine, các công cụ sẵn có vẫn có thể ngăn chặn đại dịch. Tuy nhiên, những công cụ này có chi phí kinh tế và xã hội cao. Chúng ta có thể đánh bại virus - nhưng chúng ta không chắc mình sẵn sàng trả giá bằng chiến thắng. Chính vì vậy mà các thành tựu khoa học đã đặt lên vai các nhà chính trị một trách nhiệm vô cùng to lớn.


Thật không may, quá nhiều chính trị gia đã không thực hiện được trách nhiệm này. Ví dụ, các tổng thống theo chủ nghĩa dân túy của Hoa Kỳ và Brazil đã hạ thấp sự nguy hiểm, từ chối để ý đến các chuyên gia và thay vào đó là các thuyết âm mưu. Họ đã không đưa ra một kế hoạch hành động đúng đắn của chính quyền trung ương và các nỗ lực phá hoại của chính quyền địa phương để ngăn chặn dịch bệnh. Sự cẩu thả và vô trách nhiệm của chính quyền Trump và Bolsonaro đã dẫn đến hàng trăm nghìn cái chết có thể ngăn ngừa được. Ở Anh, chính phủ ban đầu dường như bận tâm đến Brexit hơn là với Covid-19.


Đối với tất cả các chính sách cô lập của mình, chính quyền Johnson đã thất bại trong việc cô lập nước Anh khỏi một thứ thực sự quan trọng: virus. Đất nước Israel quê hương tôi cũng đã phải chịu đựng sự quản trị yếu kém về chính trị. Như trường hợp của Đài Loan, New Zealand và Cyprus, Israel trên thực tế là một “quốc đảo”, với biên giới khép kín và chỉ có một cửa khẩu nhập cảnh chính – Phi trường Ben Gurion. Tuy nhiên, vào đỉnh điểm của đại dịch, Chính phủ Netanyahu đã cho phép du khách đi qua sân bay mà không có kiểm dịch hoặc thậm chí là xét nghiệm, và đã bỏ qua việc thực thi các chính sách cách ly xã hội của riêng mình.


Cả Israel và Anh sau đó đều đi đầu trong việc tung ra vaccine, nhưng những đánh giá sai lầm ban đầu của họ đã khiến họ phải trả giá đắt. Ở Anh, đại dịch đã cướp đi sinh mạng của 120.000 người, đứng thứ sáu trên thế giới về tỷ lệ tử vong trung bình. Trong khi đó, Israel có tỷ lệ trường hợp được xác nhận trung bình cao thứ bảy và để chống lại thảm họa, họ đã sử dụng một thỏa thuận “đổi vaccine lấy dữ liệu” với tập đoàn Pfizer của Hoa Kỳ. Pfizer đã đồng ý cung cấp đủ vaccine cho Israel để đổi lấy lượng dữ liệu có giá trị khổng lồ, làm dấy lên lo ngại về quyền riêng tư và độc quyền dữ liệu, đồng thời chứng minh rằng dữ liệu của công dân hiện là một trong những tài sản nhà nước có giá trị nhất.



Trong khi một số quốc gia hoạt động tốt hơn nhiều, nhân loại nói chung cho đến nay vẫn thất bại trong việc ngăn chặn đại dịch hoặc đề ra một kế hoạch toàn cầu để đánh bại virus. Những tháng đầu năm 2020 giống như thể đang xem một vụ tai nạn xảy ra từ từ. Truyền thông hiện đại giúp mọi người trên khắp thế giới có thể nhìn thấy trong thời gian thực những hình ảnh đầu tiên từ Vũ Hán, sau đó từ Ý, sau đó từ ngày càng nhiều quốc gia - nhưng không có lãnh đạo toàn cầu nào xuất hiện để ngăn chặn thảm họa đang nhấn chìm thế giới. Các công cụ đã có ở đó, nhưng thường xuyên thiếu sự khôn ngoan chính trị.


NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THAM GIA DẬP DỊCH


Một lý do giải thích cho khoảng cách giữa thành công khoa học và thất bại chính trị là sự hợp tác toàn cầu giữa các nhà khoa học, trong khi các chính trị gia có xu hướng thù địch lẫn nhau. Làm việc dưới nhiều căng thẳng và không chắc chắn, các nhà khoa học trên khắp thế giới đã tự do chia sẻ thông tin, tri thức dựa trên những phát hiện và hiểu biết của nhau. Nhiều dự án nghiên cứu quan trọng đã được thực hiện bởi các nhóm nhà khoa học quốc tế.


Ví dụ, một nghiên cứu quan trọng chứng minh hiệu quả của các biện pháp cách ly xã hội đã được các nhà nghiên cứu từ chín tổ chức đồng thực hiện - một ở Anh, ba ở Trung Quốc và năm ở Hoa Kỳ. Ngược lại, các chính trị gia đã thất bại trong việc thành lập một liên minh quốc tế chống lại virus và đồng ý về một kế hoạch toàn cầu. Hai siêu cường hàng đầu thế giới, Hoa Kỳ và Trung Quốc, đã cáo buộc nhau giữ kín thông tin quan trọng, phổ biến thông tin sai lệch và thuyết âm mưu, thậm chí cố tình phát tán virus. Nhiều quốc gia khác rõ ràng đã làm sai lệch hoặc giấu dữ liệu về diễn biến của đại dịch.


Sự thiếu hợp tác toàn cầu thể hiện không chỉ trong các cuộc chiến tranh thông tin này mà còn thể hiện nhiều hơn trong các cuộc xung đột về trang thiết bị y tế khan hiếm. Mặc dù đã có nhiều trường hợp hợp tác và hào phóng, nhưng không có nỗ lực nghiêm túc nào được thực hiện để tổng hợp tất cả các nguồn lực sẵn có, hợp lý hóa sản xuất toàn cầu và đảm bảo phân phối nguồn cung cấp một cách công bằng. Đặc biệt, “chủ nghĩa dân tộc về vaccine” tạo ra một loại bất bình đẳng toàn cầu mới giữa các quốc gia có thể tiêm chủng cho dân cư của họ và các quốc gia không thể tiêm chủng cho dân cư của mình.


Thật đáng buồn khi nhiều người không hiểu một sự thật đơn giản về đại dịch này: chừng nào virus vẫn tiếp tục lây lan ở bất cứ đâu, thì không quốc gia nào có thể thực sự an toàn. Giả sử Israel hoặc Vương quốc Anh thành công trong việc diệt trừ virus trong biên giới của mình, nhưng virus vẫn tiếp tục lây lan cho hàng trăm triệu người ở Ấn Độ, Brazil hoặc Nam Phi. Một đột biến mới ở một thị trấn xa xôi nào đó của Brazil có thể khiến vaccine mất tác dụng và dẫn đến một làn sóng lây nhiễm mới. Trong trường hợp khẩn cấp hiện nay, những lời kêu gọi thuần túy bởi lòng vị tha có lẽ sẽ không mâu thuẫn với lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hiện nay, sự hợp tác toàn cầu không phải là lòng vị tha. Đó là điều cần thiết để đảm bảo lợi ích quốc gia.


CHỐNG LẠI VIRUS CHO CẢ THẾ GIỚI


Các tranh luận về những gì đã xảy ra vào năm 2020 sẽ còn tiếp tục diễn ra gay gắt trong nhiều năm tới. Nhưng tất cả các phe phái chính trị nên đồng ý với nhau về ít nhất ba bài học chính. Trước tiên, chúng ta cần bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của mình. Đó là sự cứu rỗi của chúng ta trong đại dịch này, nhưng nó có thể sớm trở thành nguồn gốc của một thảm họa thậm chí còn tồi tệ hơn. Thứ hai, mỗi quốc gia nên đầu tư nhiều hơn vào hệ thống y tế công cộng của mình. Điều này có vẻ hiển nhiên, nhưng các chính trị gia và cử tri đôi khi thành công khi bỏ qua bài học rõ ràng nhất. Thứ ba, chúng ta nên thiết lập một hệ thống toàn cầu mạnh mẽ để giám sát và ngăn chặn đại dịch.



Trong cuộc chiến lâu dài giữa con người và các tác nhân gây bệnh, cuộc chiến thực sự diễn ra trong cơ thể của mỗi con người. Nếu ranh giới này bị phá vỡ ở bất kỳ đâu trên hành tinh, nó sẽ khiến tất cả chúng ta gặp nguy hiểm. Ngay cả những người giàu nhất ở các nước phát triển nhất cũng có lợi ích cá nhân để bảo vệ những người nghèo nhất ở các nước kém phát triển nhất. Nếu một loại virus mới lây nhiệm từ dơi sang người trong một ngôi làng nghèo trong khu rừng hẻo lánh nào đó, trong vài ngày tới virus đó có thể xuất hiện trên Phố Wall.


Nền tảng của một hệ thống chống lại dịch bệnh toàn cầu như vậy đã tồn tại dưới hình dáng của Tổ chức Y tế Thế giới và một số tổ chức khác. Nhưng ngân sách hỗ trợ hệ thống này rất ít ỏi, và nó hầu như không tạo ra lợi ích chính trị. Chúng ta cần cung cấp cho hệ thống này một số ảnh hưởng chính trị và nguồn ngân sách dồi dào hơn nữa, để nó không hoàn toàn phụ thuộc vào ý thích bất chợt của các chính trị gia ích kỷ nào. Như đã nói trước đó, tôi tin rằng nên để cho các chuyên gia tham gia vào việc đưa ra các quyết định chính sách quan trọng. Điều đó nên được các chính trị gia tiếp tục phát huy. Nhưng một số loại cơ quan y tế toàn cầu độc lập sẽ là nền tảng lý tưởng để tổng hợp dữ liệu y tế, theo dõi các mối nguy tiềm ẩn, nâng cao cảnh báo và chỉ đạo nghiên cứu & phát triển. Nhiều người lo sợ rằng Covid-19 đánh dấu sự khởi đầu của một làn sóng đại dịch mới. Nhưng nếu các bài học trên được thực hiện, cú sốc kiểu Covid-19 mà có thể thực sự dẫn đến đại dịch mới sẽ trở nên ít phổ biến hơn.


Loài người không thể ngăn chặn sự xuất hiện của các mầm bệnh mới. Đây là một quá trình tiến hóa tự nhiên đã diễn ra hàng tỷ năm và sẽ còn tiếp tục trong tương lai. Nhưng ngày nay loài người có kiến thức và công cụ cần thiết để ngăn chặn các tác nhân gây bệnh mới lây lan và trở thành đại dịch. Tuy nhiên, nếu Covid-19 tiếp tục lây lan vào năm 2021 và giết chết hàng triệu người, hoặc nếu một đại dịch thậm chí còn gây chết người hơn nữa tấn công nhân loại vào năm 2030, thì đây sẽ không phải là một thảm họa tự nhiên không thể kiểm soát và cũng không phải là sự trừng phạt từ Chúa. Đó sẽ là một thất bại của con người và - chính xác hơn - là một thất bại chính trị.


Yuval Noah Harari là tác giả của ‘Sapiens’, ‘Homo Deus’, ‘21 Bài học cho thế kỷ 21’và‘ Sapiens: A Graphic History ’.


   Mời xem thêm »



© Yuval Noah Harari
    Nguyễn Trung Kiên biên dịch
    The New Viet
Nguồn: Yuval Noah Harari: Lessons from a year of Covid | Free to read. Financial Times, FEBRUARY 25 2021

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Bottom Ad

Pages