Vào ngày 3 tháng 11 này, khi người dân Mỹ xếp hàng bầu cử tổng thống cho nhiệm kỳ 4 năm tới, trên thực tế, họ không phải trực tiếp bầu tổng thống, mà là bầu cho những Đại cử tri đại diện của từng tiểu bang, những Đại cử tri này sẽ thay mặt họ bầu tổng thống.
Dưới đây là phân tích sơ lược về hệ thống bầu cử theo phiếu Đại cử tri và đặc điểm nổi bật của nó, cũng như phân tích về các tiểu bang Chiến trường trong bầu cử tổng thống Hoa Kỳ.
Hệ thống bầu cử theo Cử tri Đoàn
Khác với hầu hết hệ thống bầu cử trên thế giới mà ứng cử viên nhận được nhiều phiếu nhất sẽ đắc cử, hay còn gọi là bầu cử theo số phiếu phổ thông. Bầu cử Tổng thống của Mỹ có sự khác biệt, được gọi là Cử tri Đoàn (Electoral College), mà ở đó các Đại cử tri (Electors) sẽ là người trực tiếp bỏ phiếu quyết định ai là Tổng thống, chứ không phải là cử tri phổ thông. Điều này nghĩa là, những Đại cử tri đó sẽ thay mặt cho người dân (đã bầu chọn Đại cử tri) để bầu Tổng thống.
Hệ thống bầu cử theo Cử tri Đoàn hiểu một cách nôm na là kết hợp giữa bầu cử phổ thông và bầu cử Quốc hội. Lý do nó giống bầu cử phổ thông là nó vẫn chủ yếu dựa vào số lượng phiếu bầu phổ thông của dân chúng. Vì Đại cử tri của mỗi bang được lựa chọn theo phương thức phiếu phổ thông của từng bang. Trong toàn bộ các cuộc bầu cử từ năm 1788 đến nay, nước Mỹ có 58 cuộc bầu cử Tổng thống thì chỉ có 5 lần người đắc cử có số phiếu phổ thông thấp hơn, đó là vào năm 1824, 1876, 1888, 2000, 2016. Hai lần gần nhất là vào năm 2016 với Tổng thống Donald Trump và vào năm 2000 với người đắc cử là George Bush.
Đặc điểm của hệ thống bầu cử Cử tri Đoàn giống với bầu cử Quốc hội, với số lượng Đại cử tri của một tiểu bang bằng số lượng nghị sĩ quốc hội của tiểu bang đó. Tức là bằng tổng số lượng của Thượng nghị sỹ (cố định là 2) và số lượng Hạ nghị sĩ (Dân biểu) của bang đó. Trên toàn quốc, con số này sẽ là số tổng nghị sĩ của Thượng viện và Hạ Viện (cộng thêm đại diện của đặc khu Washington). Đại cử tri của từng bang sẽ đại diện cho cử tri của những bang đó để bầu Tổng thống.
Có một điểm cần chú ý là Đại cử tri được chọn không phải là thành viên Quốc hội hoặc có nắm chức vụ nào trong chính phủ liên bang.
Tại Hoa Kỳ, mỗi bang có 2 Thượng nghị sĩ, bất kể là dân số của bang đó nhiều hay ít. Chẳng hạn như, tiểu bang California có dân số lớn nhất nước, sẽ có 2 đại diện tại Thượng Viện; còn tiểu bang có dân số ít như Wyoming thì cũng có 2 đại diện. Còn số lượng Hạ nghị sĩ của mỗi bang được quyết định dựa vào dân số của bang đó, như vậy, với những tiểu bang có dân số thấp thì có ít Hạ nghị sĩ tại Hạ Viện và ngược lại.
Cụ thể, California là tiểu bang có số lượng dân biểu nhiều nhất với 53 dân biểu do tiểu bang này có dân số lớn nhất Hoa Kỳ. Như vậy, số lượng Đại cử tri mà California có sẽ là tổng của số Đại cử tri đại diện cho Thượng nghĩ sĩ (2) và Đại cử tri đại diện cho Hạ nghị sĩ (53), tổng cộng là 55. Đây cũng là tiểu bang mà có số lượng Đại cử tri nhiều nhất của Hoa Kỳ.
Vậy theo một công thức toán học đơn giản:
Số lượng Tổng phiếu Đại cử tri của toàn Hoa Kỳ sẽ bằng: số lượng Thượng nghị sĩ (100) + số lượng Hạ nghị sĩ (435) + đại diện của đặc khu Washington (3) = 538.
Để đắc cử tổng thống thì số lượng phiếu Đại cử tri tối thiểu mà ứng cử viên cần giành được phải “quá bán”, là từ 270 phiếu trở lên (lớn hơn 538/2=269).
Lý do bầu cử theo hệ thống Đại cử tri
Những Người cha Lập quốc của nước Mỹ (Founding Fathers) đã có nhiều lý do để “thiết kế” ra hệ thống bầu cử này. James Madison, Tổng thống thứ 4 của Hoa Kỳ và là một trong những người viết Hiến pháp Hoa Kỳ - đã đưa ra lý do là, số đông không phải lúc nào cũng đúng, mà bầu cử cần dựa vào những cử tri có năng lực phân tích phán đoán ở khâu cuối cùng là trực tiếp bầu Tổng thống.
Nếu theo hệ thống phiếu phổ thông, các ứng cử viên sẽ “nhắm” sự quan tâm và những lời hứa tranh cử tới những tiểu bang có dân số lớn, nơi tập trung những thành phố và khu công nghiệp lớn, khiến những tiểu bang nhỏ, tiểu bang vùng nông thôn ít được chú ý. Chẳng hạn, các ứng cử viên sẽ nhắm vào tiểu bang lớn như California, Texas mà bỏ qua những tiểu bang nhỏ như Montana, Wyoming.
Vì vậy, bầu cử theo phiếu Đại cử tri sẽ bảo vệ những tiểu bang nhỏ và khu vực nông thôn. Do các tiểu bang nhỏ cũng có số lượng số phiếu đại cử tri nhất định, khiến các ứng cử viên tổng thống cũng phải quan tâm, và có những cam kết khi tranh cử với những tiểu bang này. Hiện nay số phiếu đại cử tri tối thiểu mà một tiểu bang có là 3 phiếu.
Khi những tiểu bang lớn không phải là trọng tâm “ưu ái”, thì sẽ có sự giảm tải đối với những vấn đề và mối quan tâm ở những tiểu bang này - vốn không hẳn là vấn đề của toàn bộ đất nước.
Vậy câu hỏi đặt ra là, nếu bầu cử theo phiếu Đại cử tri, thì liệu phiếu phổ thông có quan trọng không? Câu trả lời là phiếu phổ thông vẫn rất quan trọng vì Đại cử tri được bầu căn cứ trên số phiếu phổ thông.
Tại sao lại có bang Chiến trường?
Trong hệ thống Cử tri Đoàn, đối với hầu hết tiểu bang (48 tiểu bang và đặc khu Washington), kết quả bầu cử Đại cử tri của bang đó được tính trên cơ sở “được ăn cả, ngã về không”. Nghĩa là, ứng cử viên đảng nào dành được nhiều số phiếu phổ thông nhất của bang sẽ dành được toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang đó, ngược lại, ứng cử viên kia (ít phiếu bầu phổ thông hơn) sẽ không được bất kỳ phiếu đại cử tri nào.
Chiến thắng sít sao hay chiến thắng vang dội cũng như nhau, [ứng cử viên nào có nhiều phiếu bầu phổ thông hơn] sẽ dành được hết số phiếu Đại cử tri của bang đó, đảng thắng cử với 99% số phiếu cũng tương tự với đảng thắng cử với số phiếu 51%.
Ví dụ, tiểu bang Texas với số phiếu đại cử tri là 38, nếu ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa chiến thắng bang này với tỷ lệ số phiếu phổ thông là 55% so với số phiếu của đảng Dân chủ là 45%, thì toàn bộ số phiếu Đại cử tri của bang này sẽ thuộc về đảng Cộng hòa. Còn đảng Dân chủ sẽ không được bất kỳ số phiếu nào của bang này, cho dù có đến 45% cử tri của bang bầu cho họ.
Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cơ chế “được ăn cả, ngã về không” dần dần tạo thành hệ thống 2 đảng. Khi mới lập quốc, hệ thống chính trị Hoa Kỳ chia theo 2 phe, phe ủng hộ thể chế Liên bang (the Federalists) và phe phản đối (anti-Federalists). Dần dần qua thời gian, hiện nay nước Mỹ cũng hình thành hệ thống chính trị 2 đảng chính, gồm đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ.
Cơ chế chính trị 2 đảng đã tạo ra những tiểu bang có kết quả bầu cử sít sao, do tỷ lệ cử tri ủng hộ của 2 đảng trong một tiểu bang là gần như tương đương hoặc không có sự chênh lệch lớn. Đặc biệt là trong khối cử tri độc lập của một bang không theo một đảng phái chính trị nào. Các tiểu bang như trên được gọi các tiểu bang “dao động” (Swing states) hay còn gọi là tiểu bang Chiến trường (Battleground states).
Như vậy có thể thấy một đặc điểm nổi bật của các tiểu bang chiến trường là các tiểu bang này “không trung thành” với bất cứ với một đảng phái qua các cuộc bầu cử.
Các bang này là mục tiêu của các chiến dịch tranh cử từ cả 2 đảng chính. Đó là lý do tại sao một nhóm các bang thường xuyên nhận được phần lớn quảng cáo và các vận động tranh cử của các ứng cử viên 2 đảng. Bang Chiến trường có thể thay đổi trong một số chu kỳ bầu cử nhất định và có thể được phản ánh trong cuộc thăm dò tổng thể, về nhân khẩu học và sự lôi cuốn, thu hút của những người được đề cử.
Tiểu bang trung thành với một đảng
Trong khi đó, các bang thường xuyên trung thành bỏ phiếu cho một đảng duy nhất được gọi là các bang an toàn, vì người ta thường cho rằng ứng cử viên có đủ số lượng cử tri ủng hộ vững chắc tại bang đó. Sự ủng hộ của các tiểu bang này cho một đảng duy nhất thường được duy trì ổn định qua nhiều năm vì cơ sở cử tri ổn định. Nếu có thay đổi thì thường phải qua nhiều năm, do sự thay đổi về nhân khẩu học không thể xảy ra một sớm một chiều.
Sở dĩ cử tri trung thành vào một đảng tại bang đó, vì phần lớn cơ sở cử tri tại những bang này đồng thuận với những chủ trương của đảng phái đó, hay đồng thuận với ý thức hệ chính trị của đảng phái đó. Những tiểu bang có cơ sở cử tri có niềm tin tôn giáo sẽ thiên về đảng Cộng hòa, còn những tiểu bang với tư tưởng phóng khoáng theo chủ nghĩa tự do cấp tiến thì sẽ thiên về ủng hộ đảng Dân chủ. Ví như tiểu bang California, New York và vùng New England là những tiểu bang trung thành với đảng Dân chủ qua nhiều năm. Còn những tiểu bang thuộc vùng Đại bình nguyên Bắc Mỹ như Idaho, Wyoming, Montana, Utah… hay những tiểu bang vùng miền nam nước Mỹ như Alabama, Georgia, Mississippi, Louisiana… là những tiểu bang trung thành với đảng Cộng hòa.
Do vậy trong các cuộc vận động bầu cử, các ứng cử viên tổng thống sẽ ít dành thời gian và nguồn lực cho các bang trung thành, họ sẽ tập trung vào những bang Chiến trường - những bang mà có thể thay đổi cục diện kết quả của cuộc bầu cử. Nếu có vận động cũng chỉ là danh nghĩa. Tuy vậy, bài học năm 2016 với ứng cử viên Hillary Clinton là bà đã coi nhẹ tiểu bang Wisconsin, vốn là bang trung thành với đảng Dân chủ trong gần 3 thập kỷ qua, và ít dành thời gian vận động tranh cử tại tiểu bang này. Kết quả, ứng cử viên của đảng Cộng hòa lúc đó là Donald Trump đã thắng cử ở Wisconsin.
Xem thêm: Sự khác biệt giữa Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ trong chính trị Hoa Kỳ
Tầm quan trọng của bang Chiến trường?
Do bang chiến trường có tỷ lệ ủng hộ 2 đảng sít sao và nếu thắng tại bang đó thì ứng cử viên sẽ được toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang, nên cục diện bầu cử của bang đó có thể xoay chuyển kết quả của cả cuộc bầu cử.
Trong năm nay (2020), theo các chuyên gia, bầu cử Mỹ chỉ xoay quanh 12 bang chiến trường.
Một số bang Chiến trường quan trọng
Theo trang web phân tích chính trị FiveThirtyEight, trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, những tiểu bang sau đây được tính là bang chiến trường: Arizona, Georgia, Florida, Iowa, Michigan, Minnesota, Nevada, New Hampshire, North Carolina, Ohio, Pennsylvania, Texas, và Wisconsin.
Florida
Đây có thể coi là bang Chiến trường quan trọng nhất. Lý do là Florida có số phiếu đại cử tri nhiều thứ 3 trong tổng 51 tiểu bang bầu cử của Hoa Kỳ với 29 phiếu, chỉ đứng sau California (55 phiếu) và Texas (38 phiếu). Để thắng cử, ứng cử viên tổng thống phải đạt số phiếu đại cử tri tối thiểu là 270, vì vậy, với số phiếu đại cử tri là 29, Florida đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định kết quả bầu cử. Florida là bang đã từng 2 lần quyết định kết quả bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, vào năm 1876 và năm 2000. Đặc biệt vào năm 2000, ứng cử viên đảng Cộng hòa George Bush (con) đã thắng ứng cử viên đảng Dân chủ Al Gore với số phiếu cách biệt chỉ là 537 phiếu phổ thông.
Từ năm 1964 đến nay, ứng cử viên đắc cử tổng thống đều thắng ở Florida, ngoại trừ một trường hợp vào năm 1992 khi Florida nghiêng về ứng cử viên đảng Cộng hòa George Bush (cha) nhưng ông lại thua Bill Clinton vào năm đó.
Pennsylvania
Tiểu bang này có 20 phiếu đại cử tri, đứng thứ 5 trong các bang có nhiều phiếu đại cử tri nhất.
Tuy vậy, do có sự chuyển dịch về dân số, nên số phiếu đại cử tri của Pennsylvania đã giảm dần trong 100 năm trở lại đây. Vào những năm đầu của thế kỷ 20, tiểu bang này có đến 38 số phiếu đại cử tri (chỉ đứng sau New York vào thời điểm đó). Năm 2016, Tổng thống Donald Trump thắng cử chỉ cách biệt 0,7% số phiếu phổ thông trước ứng cử viên Dân chủ Hillary Clinton tại tiểu bang này.
Theo các chuyên gia, bang Pennsylvania đóng vai trò quan trọng nhất trong cuộc bầu cử năm nay.
Ohio
Từ sau Thế chiến Thứ hai đến nay, chỉ trừ duy nhất một lần vào năm 1960, khi tiểu bang này bầu cho ứng cử viên đảng Cộng hòa Richard Nixon, nhưng cuối cùng ông Nixon lại thất cử trước ứng cử viên đảng Dân chủ John F. Kennedy, còn lại tất cả các cuộc bầu cử khác, ứng cử viên tổng thống đắc cử đều phải thắng ở Ohio.
Riêng đối với đảng Cộng hòa, chưa có ứng cử viên đảng Cộng hòa nào thẳng cử mà không thắng tại Ohio.
Năm 2016, Tổng thống Donald Trump thắng cách biệt tới 8 điểm trước bà Hillary Clinton tại bang này. Năm 2020, ông Trump vẫn có lợi thế lớn tại Ohio, và do sự cách biệt phiếu khá lớn nên nhiều nhà phân tích chính trị không tính Ohio là tiểu bang “dao động” trong cuộc đua năm nay.
© Minh Dũng
NTDVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét