Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thời Covid-19 - Tin Tức Hàng Ngày Online -->

Breaking

Home Top Ad

Post Top Ad

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2020

Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thời Covid-19



Đảo Phú Lâm, nơi có miếu thần Hoàng Sa thời vua Minh Mạng, nay trở thành thủ phủ « thành phố Tam Sa ». Ảnh vệ tinh của AMTI. © AMTI


Nhấp vào nút play (►) dưới đây để nghe

Dịch Covid-19 tác động trực tiếp và gián tiếp đến quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là tình hình ở Biển Đông. Sau một thời gian tạm ngừng, trao đổi thương mại giữa hai nước dần được nối lại. Tuy nhiên, tình hình Biển Đông trở nên căng thẳng hơn do Bắc Kinh lợi dụng việc thế giới bận chống dịch để gia tăng hành động quân sự, củng cố yêu sách chủ quyền và chèn ép các nước có tranh chấp trong khu vực.

Hà Nội đối phó như thế nào với chiến lược của Bắc Kinh ? Liệu đại dịch Covid-19 có trở thành cơ hội để Việt Nam thu hút thiện cảm của công luận quốc tế, đặc biệt là trước sự chèn ép ngày càng thô bạo của Trung Quốc ở Biển Đông ?

RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon), Pháp.

*****

RFI : Khi dịch Covid-19 xuất phát tại Trung Quốc, chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều biện pháp triệt để, trong khi nhiều nước vẫn do dự và tiếp tục cho công dân Trung Quốc nhập cảnh. Tương tự, ngay khi dịch có dấu hiệu tạm lắng, Việt Nam lại khẩn trương mở cửa biên giới, nối lại trao đổi thương mại với Trung Quốc. Phải hiểu quyết tâm này như thế nào ?

Laurent Gédéon : Trường hợp của Việt Nam rất đáng chú ý, chỉ có hơn 300 trường hợp nhiễm Covid-19 và không có ca tử vong nào. Kết quả này biến Việt Nam thành một quốc gia rất đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh. Và kết quả này gắn chặt với tinh thần cảnh giác, mau lẹ trong chiến lược chống dịch từ rất sớm của chính quyền.




Từ sự cảnh giác này, chính quyền Việt Nam đã đưa ra ba loạt biện pháp chính, trong đó có các biện pháp đóng cửa, như đóng cửa trường học, tạm ngừng các chuyến bay giữa hai nước và đóng cửa biên giới với Trung Quốc. Dĩ nhiên, quyết định này tác động nặng đến kinh tế, nhưng chính phủ Việt Nam chịu trách nhiệm về quyết định này.

Bắc Kinh từng xem những nước hạn chế nhập cảnh đối với công dân Trung Quốc là “thiếu thân thiện”. Nhưng sau đó, quan điểm của họ dần thay đổi vì ngày càng có nhiều ca nhiễm virus corona chủng mới ngoài lãnh thổ Trung Quốc nên cần phải hạn chế tình trạng lây nhiễm giữa các cá nhân. Vì thế đến lượt Trung Quốc cấm nhập cảnh đối với công dân các nước bị dịch Covid-19, trong đó có Việt Nam, sau đó là Ý và nhiều nước châu Âu khác.

Vì vậy, xét về mặt nào đó, những biện pháp được Việt Nam đưa ra không hẳn bị Bắc Kinh coi là tiêu cực mà nên hiểu ở đây là tùy vào tiến triển nhận thức về mức độ nghiêm trọng của dịch Covid-19, các nước phải chặn trước di chuyển của người dân từ nước này sang nước khác. Và tôi cho rằng đây là một yếu tố đặc biệt góp phần vào việc giữ gìn quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Nếu nhìn vào cán cân thương mại song phương, Trung Quốc đóng vai trò rất quan trọng, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc. Việt Nam có lợi về mặt kinh tế vì giao thương với Trung Quốc được nối lại, không bị ngắt quãng quá lâu, do trao đổi thương mại với Trung Quốc góp phần quan trọng vào GDP của Việt Nam. Như vậy, cả Trung Quốc và Việt Nam đều có lợi khi biên giới giữa hai nước được mở cửa trở lại và trao đổi thương mại phát triển trong bối cảnh dịch bệnh đã ổn định và dĩ nhiên cả hai nước chẳng có lợi gì khi phải đóng cửa biên giới quá lâu.

RFI : Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam có lợi sau đại dịch Covid-19 vì một số doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc có thể chuyển sang Việt Nam. Bắc Kinh nhìn nhận khả năng này như thế nào ? Liệu giữa hai nước có xuất hiện cạnh tranh nào đó không ?

Laurent Gédéon : Đúng là giả thuyết một số doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc chuyển sản xuất sang Việt Nam được nhắc đến, nhưng thiên về khía cạnh chính trị, do muốn đa dạng hóa nguồn cung cấp để tránh quá phụ thuộc vào một nước nào đó, cụ thể là Trung Quốc. Giả thuyết này cũng từng được nêu nhưng về khía cạnh kinh tế, không liên quan gì đến Covid-19, vì sản xuất tại Trung Quốc không còn lợi như trước do chi phí sản xuất cao hơn.




Nhưng theo tôi, phải nêu rõ là việc di dời doanh nghiệp sẽ cần đến sự hội tụ về lợi ích, giữa lợi ích chính trị của một nước với lợi ích riêng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, lợi ích của khối tư nhân chưa hẳn đã giống với lợi ích của chính phủ nước họ. Tương tự, không phải những lợi ích về địa chính trị được Nhà nước ưu tiên lại phù hợp với lợi ích về kinh tế của doanh nghiệp. 

Người ta vẫn thường xuyên nhắc đến sự phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, nhưng đây chưa chắc là vấn đề đối với một doanh nghiệp vì họ thấy lợi ích tài chính khi đầu tư vào Trung Quốc. Cho nên, tôi nghĩ rằng những rủi ro về dịch tễ hoặc an ninh phải kéo dài thì mới có thể đẩy các doanh nghiệp rời Trung Quốc.

Ngoài ra, việc di chuyển một dây chuyền sản xuất không thể tiến hành trong vài ngày hay vài tuần. Quá trình này cần đến việc hoạt động sản xuất phải được phát triển dần dần ở nước tiếp nhận mới và hoạt động sản xuất giảm dần ở nước cũ. Nếu không làm được điều này, sản xuất có nguy cơ bị ngưng trệ đột ngột. Để chiến lược này có khả năng thực hiện được đối với một doanh nghiệp, thì cần phải có một quy chế tài chính và quy định rất hấp dẫn, cũng như điều kiện cuộc khủng hoảng dịch tễ phải đủ kéo dài để đáng di dời sản xuất khỏi Trung Quốc.

Có một điểm lưu ý khác mà tôi cũng cho là quan trọng, đó là dịch Covid-19 không chỉ tác động đến mỗi Trung Quốc, mà cả thế giới đang phải hứng chịu, kể cả các nước phương Tây. Nếu nhìn theo quan điểm của một doanh nghiệp, rủi ro tại Trung Quốc không hẳn đã cao hơn so với những nước khác.

Chúng ta cũng nhận thấy là tình hình giữa các nước muốn “hồi hương” hoạt động sản xuất cũng không giống nhau và các nước tìm cách đưa các doanh nghiệp của họ ra khỏi Trung Quốc là để phục vụ lợi ích quốc gia. Nhật Bản là một trường hợp điển hình. Trong khuôn khổ “Kế hoạch Tái thiết”, Tokyo dành khoản ngân sách 2 tỉ euro cho các doanh nghiệp Nhật muốn chuyển hoạt động từ Trung Quốc về nước. Dĩ nhiên Bắc Kinh không hài lòng về thông báo của Tokyo.

Việt Nam nằm trong trường hợp thứ hai. Khác với trường hợp Tokyo muốn “hồi hương” doanh nghiệp Nhật, Hà Nội tìm cách thu hút công ty nước ngoài. Và quá trình này sẽ phức tạp hơn cho Việt Nam vì hai lý do. Thứ nhất, theo quan điểm của các doanh nghiệp phương Tây, thì về mặt địa lý, Việt Nam cũng xa như Trung Quốc. Như vậy, đây không hẳn là một lợi thế về địa-chính trị liên quan đến khoảng cách quá lớn giữa nhà cung cấp và khách hàng. Ví dụ, Pháp thường xuyên nêu vấn đề di dời các doanh nghiệp Pháp từ Trung Quốc về nước, thế nhưng, khu vực Bắc Phi lại thường được nhắc đến với ưu điểm là gần với châu Âu.




Lý do thứ hai mang tính địa chính trị đối với Việt Nam và liên quan đến tình hình Biển Đông. Các nhà đầu tư có thể do dự vì chỉ cần Biển Đông bị cản trở thì hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sẽ gần như bị tê liệt hoàn toàn. Dĩ nhiên Trung Quốc cũng sẽ bị ảnh hưởng nhưng nước này có thể thoát dễ hơn.

Tóm lại là chính sách có chủ ý, tranh thủ thời dịch Covid-19 để thu hút các doanh nghiệm từ Trung Quốc sang Việt Nam, khiến Bắc Kinh không hài lòng và chắc chắn trở thành một yếu tố mới, tăng thêm trọng lượng cho sự cạnh tranh tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam. Điều này có thể sẽ bị Bắc Kinh khai thác, trong giai đoạn căng thẳng, để cố làm mất uy tín chính sách của Hà Nội.

RFI : Phải hiểu như thế nào về những hoạt động cả về hành chính lẫn quân sự được Trung Quốc tiến hành với cường độ lớn ở Biển Đông ? Việt Nam có thể làm gì để đối phó, với tư cách là nước chủ tịch luân phiên ASEAN, cũng như với tư cách là một bên bị tác động vì các hành động của Trung Quốc ?

Laurent Gédéon : Chúng ta thấy nhiều yếu tố gây hấn khác nhau, có chủ ý từ phía Trung Quốc, ở Biển Đông. Ở đây, chúng ta có thể nghĩ là Trung Quốc đã lợi dụng tình hình dịch Covid-19 để thử một kiểu “đảo chính ngoại giao” ở Biển Đông và củng cố lập trường của họ.

Ngoài ra, người ta cũng có thể hoàn toàn nhận thấy là hình ảnh một đất nước Trung Hoa bị suy yếu vì đại dịch và phải tạm rút khỏi chính trường quốc tế đã bị truyền tải trong suốt nhiều tuần. Vì vậy, việc cử tầu sân bay Liêu Ninh tập trận ở Biển Đông cũng nhằm mục đích điều chỉnh lại hình ảnh này và để nhắc nhở rằng Trung Quốc là một cường quốc chủ động và vẫn đáng tin cậy cho các tác nhân khác, trong đó có các nước trong vùng, kể cả Việt Nam.

Dĩ nhiên Việt Nam có thể thử với chức chủ tịch luân phiên của ASEAN. Nhưng nội bộ khối này lại có rất nhiều bất đồng và một số nước thành viên lại có quan hệ mật thiết với Trung Quốc (như Lào và Thái Lan) và trở thành những đồng minh rất hữu hiệu cho Bắc Kinh. Vì thế, đối với Hà Nội, rất khó trực tiếp vận động được toàn khối ASEAN chống Trung Quốc. Tuy nhiên, điều mà Việt Nam có thể làm được, đó là tranh thủ chức chủ tịch ASEAN để tăng cường nỗ lực đúc kết Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Đó là một dự án mà có thể tập trung được một số đồng thuận nhất định trong số các nước thành viên ASEAN. Đây là một kiểu đối đầu gián tiếp và tôi cho rằng đó là đòn bẩy hành động đúng đắn nhất.




RFI : Việt Nam cũng tiến hành “ngoại giao khẩu trang”, trái ngược với chiến dịch tương tự của Trung Quốc bị xem là “kiêu ngạo”, theo kiểu “cứu tinh”. Liệu Hà Nội có thể trông đợi vào chiến lược này để nhận được ủng hộ của quốc tế về vấn đề Biển Đông không ?

Laurent Gédéon : Đúng là cuộc chiến chống Covid-19 của Hà Nội đã tạo nên một hình ảnh rất tích cực về Việt Nam và được truyền tải rộng rãi trên các phương tiện truyền thông thế giới. Chính sách ngoại giao khẩu trang của Hà Nội cũng góp phần củng cố sự đánh giá tích cực về Việt Nam. Điều này diễn ra trong bối cảnh thuận lợi, mà tôi xin nhắc lại là liên quan đến việc ký kết thỏa thuận tự do trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu, có rất nhiều thông cáo được công bố trong tháng Giêng và tháng Hai 2020.

Chính vì vậy, việc thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Tô Anh Dũng, ngày 07/04, đã trao tặng cho đại sứ năm nước châu Âu, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Anh Quốc, 550.000 chiếc khẩu trang được sản xuất tại Việt Nam cho thấy một hành động truyền thông mạnh mẽ và góp phần vào chiến lược “quyền lực mềm” của Việt Nam. Ngoài ra, Hà Nội cũng tặng khẩu trang cho các nước láng giềng.

Song song đó là chiến lược gây ảnh hưởng của Trung Quốc. Bắc Kinh cố không phạm một sai lầm nào trong việc xử lý khủng hoảng và đề cao mô hình chống dịch của Trung Quốc. Chính quyền Bắc Kinh cũng tỏ lòng hào hiệp, thể hiện khả năng huy động sản xuất công nghiệp giúp các quốc gia khác vượt qua đại dịch. Trung Quốc tìm cách phổ biến hình ảnh một quốc gia nhân từ, trong khi Trung Quốc bị cáo buộc che giấu quy mô ban đầu của dịch cũng như nguồn gốc của virus corona chủng mới.

Trong bối cảnh này, chính sách ngoại giao khẩu trang của Việt Nam không đủ mạnh, theo nghĩa truyền thông, để chống lại chiến lược tầm quốc tế của Trung Quốc. Nhưng Hà Nội có thể kỳ vọng vào công luận của các nước phương Tây, chú ý hơn đến tình hình Biển Đông vì chủ đề này được đề cập ngày càng nhiều trong chương trình thời sự. Cách Trung Quốc lợi dụng khủng hoảng dịch tễ để khẳng định lập trường thông qua các hoạt động quân sự cũng làm xấu hình ảnh của nước này.

Ngoài ra, cần phải bổ sung thêm một ý nữa, đó là những hành động trên của Trung Quốc diễn ra vào lúc, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ngày 23/03 đã kêu gọi đình chiến trên thế giới để tập trung chống dịch Covid-19. Dĩ nhiên, tình hình ở Biển Đông không phải là cuộc chiến trực diện, nhưng có thể coi đó là những hành động quân sự gây hấn và xảy ra trong bối cảnh cả thế giới tập trung sức lực chống đại dịch. Và điều này không tương thích với hình ảnh “trấn an” mà Trung Quốc cố thể hiện. Tôi nghĩ rằng đó là những yếu tố mà Việt Nam có thể tranh thủ trong cuộc chiến tái lập lập trường riêng ở Biển Đông và thu hút sự ủng hộ của công luận thế giới trong đối sách của Hà Nội.

RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).


© Thu Hằng
    RFI

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Bottom Ad

Pages